I.    Thông

Ngày 17/9/2021, Bộ Tài chính ban hành Thông số 78/2021/TT-BTC hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Quản lý thuế số 38 ngày 13/6/2019, Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ. Theo Thông tư 78, từ ngày 01/7/2022 hóa đơn giấy sẽ không còn hiệu lực, thay vào đó là áp dụng hóa đơn điện tử.


Thông tư 78/2021 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2022. Bộ Tài chính khuyến khích các quan, tổ chức, nhân đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin áp dụng quy định về hóa đơn, chứng từ điện tử trước ngày 01/7/2022.

Hóa đơn điện tử áp dụng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2022. Riêng trường hợp không hạ tầng công nghệ thông tin, không có hệ thống phần mềm kế toán, không có phần mềm lập hóa đơn điện tử để sử dụng hóa đơn điện tử để truyền dữ liệu điện tử đến người mua đến quan thuế thì sử dụng hóa đơn giấy của quan thuế trong thời gian tối đa 12 tháng, đồng thời cơ quan thuế có giải pháp chuyển đổi dần sang áp dụng hóa đơn điện tử.

Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế đã thông báo phát hành hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in, hóa đơn điện tử không có mã hoặc đã đăng ký áp dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế, đã mua hóa đơn của cơ quan thuế trước ngày Thông tư này được ban hành thì được tiếp tục sử dụng hóa đơn đang sử dụng kể từ ngày Thông tư này được ban hành đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2022 và thực hiện các thủ tục về hóa đơn theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

Từ nay đến hết ngày 30/6/2022, đối với các địa bàn đã đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng để triển khai hóa đơn điện tử theo Quyết định của Bộ Tài chính trên cơ sở đề nghị của Tổng cục Thuế thì cơ sở kinh doanh trên địa bàn có trách nhiệm chuyển đổi để áp dụng hóa đơn điện tử quy định tại Thông này theo lộ trình thông báo của cơ quan thuế. Trường hợp cơ sở kinh doanh chưa đáp ứng điều kiện về hạ tầng công nghệ thông tin mà tiếp tục sử dụng hóa đơn theo các hình thức nêu trên thì cơ sở kinh doanh thực hiện gửi dữ liệu hóa đơn đến cơ quan thuế theo Mẫu số 03/DL-HĐĐT Phụ lục IA ban hành kèm theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP cùng với việc nộp tờ khai thuế giá trị gia tăng. quan thuế tiếp nhận dữ liệu hóa đơn của các cơ sở kinh doanh để đưa vào cơ sở dữ liệu hóa đơn và đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế phục vụ việc tra cứu dữ liệu hóa đơn.


Tại Điều 3 Thông tư 78, người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức khác được quyền ủy nhiệm cho bên thứ ba (là bên có quan hệ liên kết với người bán, là đối tượng đủ điều kiện sử dụng hoá đơn điện tử và không thuộc trường hợp ngừng sử dụng hóa đơn điện tử) lập hóa đơn điện tử cho hoạt động bán hàng hoá, dịch vụ. Hướng dẫn này đã cụ thể hóa Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về việc người bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ có thể ủy nhiệm bên thứ ba lập hóa đơn điện tử cho hoạt động bán hàng hoá, dịch vụ. Cũng theo hướng dẫn của Thông tư 78, hóa đơn điện tử ủy nhiệm phải thể hiện tên, địa chỉ, số thuế của bên ủy nhiệm tên, địa chỉ, số thuế của bên nhận ủy nhiệm và phải đúng thực tế phát sinh.

II.    Công văn

1.   Công văn số 3727/TCT-CS ngày 27/9/2021 về tiền thuê đất khi cổ phần hóa doanh nghiệp

-   Về xử đối với khoản nợ tiền thuê đất phát sinh khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần:

Đề nghị Công ty Cổ phần Cà phê Gia Lai báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện, hoàn tất quá trình cổ phần hóa Công ty TNHH MTV Cà phê Gia Lai theo đúng quy định tại Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 của Chính phủ nêu trên. Đối với các khoản thuế (trong đó có khoản nợ tiền thuê đất), Công ty Cổ phần Cà phê Gia Lai chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp cổ phần hóa (là Công ty TNHH MTV Cà phê Gia Lai) theo đúng quy định tại Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 126/2017/NĐ- CP và pháp luật về quản lý thuế.

-   Về xác định diện tích tính thu tiền thuê đất:

Pháp luật về thu tiền thuê đất thuê mặt nước theo Luật Đất đai 2003 và Luật Đất đai 2013 không có quy định tính tiền thuê đất theo diện tích quy định tại quyết định phê duyệt phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa doanh nghiệp như đề xuất của Công ty Cổ phần Cà phê Gia Lai. Theo quy định thì cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm xác định diện tích phải nộp tiền thuê đất làm căn cứ để cơ quan thuế xác định số tiền thuê đất phải nộp của người thuê đất theo quy định của pháp luật.

2.    Công văn số 3745/TCT-TTKT ngày 28/9/2021 về chính sách thuế

-   Xác định chi phí lãi vay đối với chi nhánh hạch toán độc lập

Nếu Chi nhánh nhựa đường Petrolimex Cần Thơ là người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo phương pháp khai, phát sinh giao dịch với các bên liên kết thì Chi nhánh nhựa đường Petrolimex Cần Thơ thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định


20/2017/NĐ-CP; Nghị định số 68/2020/NĐ-CP ngày 24/6/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 8 Nghị định số 20/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.

-   Thanh toán bù trừ công nợ

Theo trình bày của Cục Thuế thành phố Cần Thơ tại Công văn số 2284/CTCTH- TTKT1 ngày 19/5/2021 thì phương thức thanh toán tiền hàng giữa Công ty TNHH nhựa đường Petrolimex và Chi nhánh nhựa đường Petrolimex Cần Thơ không đáp ứng quy định về thanh toán không dùng tiền mặt (bao gồm cả các trường hợp thanh toán khác) theo quy định tại điểm 3; điểm 4 khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/02/2015 của Bộ Tài chính quy định về điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào (sửa đổi, bổ sung Điều 15 Thông số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính). Theo đó, phương thức thanh toán tiền hàng giữa Công ty nhựa đường Petrolimex và Chi nhánh nhựa đường Petrolimex Cần Thơ nêu trên không đủ điều kiện khấu trừ thuế GTGT.

3.    Công văn số 3749/TCT-KK ngày 28/9/2021 về hoàn thuế GTGT dự án đầu tư

Công ty CP Năng lượng Tái tạo Vĩnh Châu- TDC thực hiện dự án đầu "Dự án Nhà máy điện gió Lạc Hòa - giai đoạn 1 tỉnh Sóc Trăng" và Công ty Cổ phần Năng lượng Sóc Trăng thực hiện dự án đầu "Dự án Nhà máy điện gió số 7". Tính đến ngày nộp hồ sơ đề nghị hoàn thuế, Công ty CP Năng lượng Tái tạo Vĩnh Châu- TDC Công ty Cổ phần Năng lượng Sóc Trăng đã góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký tại Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì không thuộc trường hợp không được hoàn thuế giá trị gia tăng theo quy định tại điểm c1 khoản 3 Điều 1 Thông tư số 130/2016/TT-BTC ngày 12/8/2016 của Bộ Tài chính.

"Dự án Nhà máy điện gió Lạc Hòa - giai đoạn 1 tỉnh Sóc Trăng" của Công ty CP Năng lượng Tái tạo Vĩnh Châu-TDC và "Dự án Nhà máy điện gió số 7" của Công ty Cổ phần Năng lượng Sóc Trăng đã Giấy phép hoạt động điện lực thì Cục Thuế căn cứ tình hình thực tế để xử lý việc hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư của Công ty CP Năng lượng Tái tạo Vĩnh Châu-TDC và Công ty Cổ phần Năng lượng Sóc Trăng theo quy định.